Chiến tranh Thế giới thứ hai Tàu_corvette

USS Intensity (PG-93), một chiếc corvette thuộc lớp Flower do Hoa Kỳ sử dụng trong Thế Chiến II

Tàu corvette hiện đại xuất hiện trong Chiến tranh Thế giới thứ hai như là những tàu được chế tạo dễ dàng cho vai trò tuần tra và hộ tống đoàn tàu vận tải. Nhà thiết kế hải quân người Anh William Reed đã vẽ kiểu ra một loại tàu nhỏ dựa trên lườn của tàu săn cá voi Southern Pride một trục chân vịt của hãng Smiths Dock Company, khi mà thiết kế đơn giản và những tiêu chuẩn chế tạo kiểu tàu buôn cho phép chế tạo nhanh với số lượng lớn tại các xưởng đóng tàu nhỏ vốn chưa từng được hải quân huy động. Bộ trưởng Hải quân Anh Quốc, sau này là Thủ tướng, Winston Churchill, đã góp công vào việc làm hồi sinh cái tên "corvette".

Trong cuộc chạy đua vũ trang dẫn đến Thế Chiến II, thuật ngữ "corvette" đã suýt gắn liền với lớp tàu khu trục Tribal. Nó lớn hơn nhiều và khác biệt đáng kể so với các lớp tàu khu trục khác của Anh đến mức một số người đã đề nghị cho phục hồi tên lớp "corvette" để áp dụng cho chúng. Ý tưởng này bị bác bỏ, và cái tên được áp dụng cho những tàu hộ tống nhỏ, được chế tạo hàng loạt để chống tàu ngầm như là lớp Flower trong Thế Chiến II.

Tàu corvette hiện đại đầu tiên thuộc lớp Flower (Hải quân Hoàng gia Anh đặt tên chúng theo các loài hoa, trong khi Hải quân Hoàng gia Canada đặt tên theo các thành phố nhỏ và thị trấn ở Canada). Nhiệm vụ chính của chúng là bảo vệ các đoàn tàu vận tải vượt Bắc Đại Tây Dương và trên đường đi từ Anh sang Murmansk mang hàng tiếp liệu cho Liên Xô.

Các tàu corvette Canada trong nhiệm vụ hộ tống chống tàu ngầm cho đoàn tàu vận tải trong Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Lớp Flower thoạt tiên được thiết kế dành cho việc tuần tra gần bờ, và không phải là lý tưởng cho vai trò hộ tống chống tàu ngầm; chúng quá ngắn để hoạt động ngoài biển khơi, vũ khí quá nhẹ để bảo vệ phòng không, và chỉ nhanh hơn đôi chút so với những tàu buôn mà chúng hộ tống, một khiếm khuyết lớn làm cho những tàu ngầm U-boat nhanh hơn của Đức có thể chạy thoát. Chúng hữu ích và linh hoạt, nhưng điều kiện sống trong những chuyến đi biển thật kinh khủng. Vì vậy vai trò hộ tống của corvette trong Hải quân Hoàng gia sau đó được thay thế bằng tàu frigate, vốn lớn hơn, nhanh hơn, vũ trang mạnh hơn và có hai trục chân vịt. Tuy nhiên, nhiều xưởng đóng tàu nhỏ không thể đóng được những tàu kích cỡ frigate, nên một thiết kế corvette cải tiến, lớp Castle, được đưa ra sau đó trong chiến tranh, mà một số đã tiếp tục phục vụ cho đến giữa những năm 1950.

Hải quân Hoàng gia Australia chế tạo 60 chiếc lớp Bathurst, bao gồm 20 chiếc hoạt động cho Hải quân Hoàng gia Anh với thủy thủ đoàn Australia, và 4 chiếc cho Hải quân Hoàng gia Ấn Độ. Chúng được chính thức mô tả như là tàu quét mìn Australia hoặc như là tàu xà-lúp quét mìn bởi Hải quân Hoàng gia Anh, và được đặt tên theo những thị trấn Australia.

Lớp tàu quét mìn Bird được gọi là corvette trong Hải quân Hoàng gia New Zealand, và hai chiếc như vậy, KiwiMoa, đã đâm và đánh chìm tàu ngầm Nhật Bản I-1 lớn hơn nhiều, vào năm 1943 tại quần đảo Solomon.